Subaru mang yếu tố “thể thao” vào dòng xe đa dụng (SUV) khi giới thiệu chiếc xe Subaru Forester cách đây 25 năm vào năm 1995. Kể từ đó, Forester đã trở thành một mẫu xe được công nhận trên toàn cầu nhờ vào tính thực dụng, khả năng lái trên nhiều địa hình và ở một số phiên bản đặc biệt còn được nâng cấp về tốc độ.
Ý tưởng
Trước khi mẫu xe Subaru Forester đầu tiên bắt đầu ghi dấu ấn trong lịch sử những chiếc xe thể thao đa dụng SUV, mẫu xe này đã được trình làng dưới dạng concept gọi là Streega tại Triển lãm Ô tô Tokyo lần thứ 31. Đây là thời điểm mà cơn sốt xe thể thao đa dụng đang ở mức cao. Mọi người đều muốn sở hữu một chiếc SUV, dù họ có thực sự cần hay không, nhờ vào hình ảnh “lối sống năng động” được phản chiếu qua những chiếc xe này.

Tuy nhiên, các mẫu SUV thời đó được chế tạo trên khung rời (body-on-frame), tương tự với cấu trúc của xe tải hạng nhẹ. Điều này có nghĩa là mức độ thoải mái khi đi đường và khả năng lái xe ít linh hoạt hơn nhiều so với những chiếc SUV mà chúng ta biết đến ngày nay.
Ý tưởng của Subaru để khắc phục vấn đề rất đơn giản nhưng hoàn toàn khác biệt. Tại sao không kết hợp kiểu dáng của một chiếc SUV thời thượng, năng động với khung gầm đã được kiểm chứng của Impreza thế hệ đầu tiên? Bằng cách đó, khách hàng sẽ trải nghiệm được cả sự lịch lãm của một chiếc ô tô thông thường và khả năng chinh phục mọi địa hình của một chiếc xe Offroad, cho phép họ phiêu lưu trên các con phố đô thị và các đường đua một cách tuyệt vời. Với ý tưởng đó, những “Gunma” đến từ Nhật Bản dày công sáng tạo nên Concept Streega vào năm 1995.
Có thể bạn quan tâm: Subaru Impreza 2021 – Được thiết kế để đồng hành cùng bạn trên mọi nẻo đường
Mẫu xe này có thiết kế khung liền (unibody) giống như Impreza, đồng nghĩa với khả năng vận hành vượt trội, lái xe thoải mái và an toàn hơn so với những chiếc SUV điển hình của những năm 1990. Streega sở hữu khoảng sáng gầm cao, hệ thống treo độc lập bốn bánh, hệ dẫn động bốn bánh tiêu chuẩn, động cơ tăng áp phẳng 4 trục cam kép dung tích 2 lít sản sinh công suất 250 mã lực, hộp số tự động 4 cấp và hệ thống kiểm soát lực kéo nâng cấp hơn được gọi là Vehicle Dynamics Control.
Nhờ thiết kế hình hộp, chắc chắn và gọn gàng với cửa sổ lớn (bao gồm cả cửa kính phía sau cao) và vị trí ngồi cao, Streega mang lại tầm nhìn tối đa cho người ngồi bên trong. Về kích thước, Streega lớn hơn hẳn Impreza, cho phép chứa hành lý nhiều và thoải mái hơn để sẵn sàng cho những chuyến hành trình khám phá.


Chỉ với một vài chỉnh sửa về thiết kế, Streega đã được hiện thực hóa và trở thành mẫu xe Subaru Forester nguyên bản đầu tiên, được Subaru giới thiệu tại Nhật Bản vào ngày 13 tháng 2 năm 1997. Được đặt theo tên của những người làm việc trong rừng, những người thực hành lâm nghiệp (khoa học, nghệ thuật và nghề quản lý ), đây chính là mẫu xe tiên phong trong thế hệ crossover SUV mới nổi.
Tại thị trường nội địa Nhật Bản, chiếc Forester đầu tiên đã thay thế Impreza Sports Wagon Gravel EX, hay được biết đến với cái tên Outback Sport tại thị trường Mỹ. Mặc dù số lượng sản xuất không còn nhiều vì sự xuất hiện của Forester, mẫu xe Impreza vẫn được yêu thích và tiếp tục sản xuất cho thị trường Mỹ.
Tương tự như Streega, chiếc xe Subaru Forester ban đầu dựa trên Impreza thế hệ đầu tiên, với nhiều tương đồng ở khung gầm, khung trước, bệ đỡ giảm xóc trước, thanh giằng ngang sau và cấu trúc hệ thống treo cơ bản. Khoảng sáng gầm xe của Forester tăng thêm 30mm so với Impreza nhờ vào thiết kế độc đáo của các phuộc trước sau và dầm ngang trước – sau độc lập được nới dài hơn. Tuy nhiên, cabin của Forester vẫn có độ cao hợp lý so với mặt đất để hành khách dễ dàng lên và xuống xe, không giống như những chiếc SUV gầm cao điển hình thời đó.
Hệ thống truyền động trên xe Subaru Forester

Tùy thuộc vào từng thị trường, các phiên bản của dòng xe Subaru Forester được trang bị hệ thống truyền động khác nhau. Subaru Forester SF5 tại thị trường Nhật Bản (JDM) được trang bị động cơ tăng áp 4 xy lanh phẳng EJ20G 2.0, sản sinh công suất 250 mã lực. Điều này đã giúp gia tăng sức hấp dẫn của Forester vì EJ20G cũng được trang bị trên những chiếc Subaru huyền thoại như Legacy RS, Legacy RS-RA, Legacy GT, WRX và WRX STI, mặc dù đã trải qua nhiều lần tinh chỉnh.
Phiên bản động cơ EJ20J 4 xy lanh phẳng 2.0L sản sinh công suất 122 mã lực có giá phải chăng hơn đã được ra mắt tại Nhật Bản vào cuối năm đó.
Cả hai động cơ đều được ghép nối với hộp số sàn 5 cấp có AWD hoặc hộp số tự động 4 cấp với AWD, đây là một thuật ngữ kỹ thuật do Subaru đặt ra để phân biệt với hệ thống AWD của hộp số tự động.
Trong điều kiện vận hành bình thường trên đường khô ráo, mô-men xoắn phân chia theo tỉ lệ khoảng 90% phía trước và 10% phía sau. Khi trọng lượng được chuyển đến phía sau của xe, chẳng hạn như khi tăng tốc, bộ điều khiển hộp số sẽ chuyển mô-men xoắn phân chia nhiều hơn về phía bánh sau. Đó là một ý tưởng hay; tuy nhiên, hệ thống kiểm soát lực kéo tiên tiến của Streega đã không được đưa vào sản xuất thương mại.
Subaru Forester dẫn đầu đối thủ về mặt an toàn nhờ hệ thống treo và trọng tâm thấp của động cơ đối xứng nằm ngang. Sở hữu nhiều yếu tố của một chiếc xe du lịch hơn là xe địa hình to lớn như xe tải, Forester tại thị trường Mỹ đã được miễn dán nhãn cảnh báo “rủi ro lật xe” trên tấm che nắng của người lái.
Tại Mỹ, Forester được trang bị động cơ 4 xi lanh phẳng 2,5 lít, công suất 165 mã lực tương tự như trên Outback 1998, EJ25D, là tùy chọn động cơ duy nhất dành cho khách hàng Forester tại Mỹ. Động cơ boxer này được kết hợp với hộp số sàn 5 cấp có Contunous AWD (AWD toàn thời gian) hoặc hộp số tự động 4 cấp có AWD chủ động (AWD bán thời gian)
Thiết kế ban đầu
Về mặt thiết kế, Forester vẫn giữ nguyên thiết kế của bản concept, nhưng ngoại thất đã được tinh chỉnh với một số điểm nhấn. Không gian hành khách lớn được giữ nguyên, trong khi phần đầu xe được kéo dài và chiều rộng cơ sở mở rộng, tạo nên kiểu dáng mạnh mẽ và vững chãi. Kiểu dáng của xe Subaru Forester được các chuyên gia về ô tô và khách hàng ca ngợi, với nhiều lời khen về sự “đơn giản và thực dụng, nhưng đầy phong cách”.

Về nội thất, Forester cũng có một thiết kế tinh giản và thực dụng không kém. Các cột trụ hẹp và cửa sổ kích thước rộng rãi mang lại tầm nhìn tuyệt vời và cabin rộng rãi vượt trội.

Trong vòng đời 5 năm của mình, Forester thế hệ đầu đã được một số bản cập nhật. Đáng chú ý nhất là bản facelift vào năm 2000 (2001 đối với Mỹ), với các tấm ốp sườn trước và sau được nâng cấp, đèn hậu được thiết kế lại và động cơ mới cho cả thị trường Mỹ và Nhật Bản. EJ205 thay thế EJ20G ở thị trường Nhật Bản, trong khi EJ251 thay thế EJ25D ở Mỹ.
Mặc dù S / TB-STI, cũng như S / TB-STI II và S / TB-STI II Limited thế hệ mới được trang bị hệ thống treo nâng cấp, bộ phụ kiện thân xe độc đáo và thiết kế mâm xe đặc biệt, tất cả các mẫu xe đó vẫn dùng chung một loại động cơ boxer tăng áp và hộp số tự động 4 cấp tương tự như Forester bản tiêu chuẩn.
Phiên bản Forester STI II Type M thực sự là rất hiếm, khi chỉ có 800 chiếc được sản xuất. Phiên bản này là sự hội tụ của tất cả các yếu tố tuyệt vời mà các phiên bản S / TB STI có, đồng thời bổ sung phanh nâng cấp, hệ thống treo Bilstein và động cơ EJ205 đã được tối ưu để tạo ra công suất 276 mã lực thông qua hộp số sàn 5 cấp. Mẫu xe Subaru Forester STI II Type M là mẫu STI hợp lý cho người đàn ông của gia đình.

Forester có thể không phải là mẫu xe đầu tiên của phân khúc SUV nhỏ gọn vào năm 1997, nhưng nó sở hữu phong cách đậm chất dã ngoại, khả năng lái địa hình, tính thực dụng hàng ngày, sự an toàn xung quanh mà hầu hết khách hàng đều mong muốn, và đồng thời thể hiện triết lý thiết kế độc đáo của Subaru, đã khiến mẫu xe này trở thành một mẫu xe tiên phong thực thụ trong phân khúc xe thể thao đa dụng.
Bài viết này dành tặng cho các khách hàng đã yêu mến và vẫn đang sử dụng dòng xe Subaru Forester như một người bạn đồng hành trong cuộc sống thường nhật.