Khám phá – Nếu bạn đam mê xe thể thao (Super Car) thì chắc hẳn sẽ không thể bỏ qua những chiếc xe JDM đầy hấp dẫn như Toyota GR Supra, Subaru WRX STI, Subaru BRZ, Nissan GT-R, Mazda RX-7… hay Mitsubishi Lancer Evolution. Vậy xe JDM là gì? Mời bạn cùng Subaru Đà Nẵng tìm hiểu ở nội dung bài viết sau.
Xe JDM là xe gì?
Muốn biết xe JDM là xe gì, trước tiên chúng ta phải biết về thuật ngữ “JDM”. JDM là viết tắt của Japanese Domestic Market. Là thuật ngữ dùng để chỉ hàng tiêu dùng nội địa Nhật Bản nói chung, nhưng JDM được sử dụng nhiều nhất khi đề cập đến xe hơi và linh kiện sản xuất riêng cho thị trường Nhật Bản. Nhiều người mắc sai lầm khi gọi tất cả các xe do Nhật Bản sản xuất là JDM. Thật ra, xe JDM đúng nghĩa phải là những chiếc xe chỉ dành cho thị trường nội địa Nhật Bản.
Toyota, Honda, Mazda, Mitsubishi, Nissan và Subaru đều là những cái tên tiêu biểu trong văn hóa JDM. Tuy không có động cơ dung tích lớn, thiết kế bắt mắt như những mẫu xe của Mỹ và châu Âu nhưng các mẫu xe JDM luôn mang trên mình những đặc trưng về thiết kế ngoại thất, tính năng vận hành riêng biệt đã trở thành tinh hoa của các hãng xe Nhật Bản. Điều này khẳng định rằng, JDM là nền văn hóa có tầm ảnh hưởng lớn trong ngành công nghiệp ô tô trên toàn cầu.

Đối với những chủ xe đam mê tốc độ và độ xe, các mẫu xe JDM như Nissan GT-R, Subaru WRX STI, … luôn là niềm khao khát được sở hữu tại garage của mình. Vì động cơ được trang bị trên các mẫu xe này luôn có “tiềm năng” độ rất là lớn. Thậm chí có những mẫu xe Nissan GTR trên thế giới được độ lên tới 2000 hp so với công suất nguyên bản. Rất nhiều công ty, doanh nghiệp trên thế giới được thành lập với mục đích sản xuất đồ độ dành cho những khách hàng muốn nâng cấp chiếc xe JDM của mình.


Giới mê xe thường có cùng một nhận định: những năm 90 của thế kỷ 20 là thời kỳ hoàng kim của các mẫu xe JDM. Lúc bấy giờ, xe chạy điện vẫn là điều gì đó quá xa vời, nên những sản phẩm hiệu năng cao nhất được ra lò từ các nhà máy sản xuất ô tô ở Nhật đều là tinh hoa của ngành cơ khí.
Bối cảnh đất nước Nhật Bản vào thời điểm ấy cũng góp phần củng cố cho việc hàng loạt siêu phẩm xe hơi xuất hiện. Nền kinh tế của xứ sở “mặt trời mọc” đang vào đà tăng trưởng, thu nhập người dân liên tục được cải thiện và những ai đã dư dả lại càng có nhiều tiền để phục vụ đam mê tốc độ hoặc thú chơi xe riêng biệt của mình hơn.
Bởi vậy, các chủ xe không còn quá quan tâm đến việc sử dụng xe sao cho bền bỉ lâu dài nữa, thay vào đó họ chú trọng đến những phương thức nâng cao hiệu năng vận hành, sao cho “xế cưng” của mình phát huy được tối đa tiềm năng vốn có.
Nhật Bản cũng là một trong số ít những quốc gia luôn luôn đặt quyền lợi của người tiêu dùng bản địa lên hàng đầu. Chính vì thế, xe hơi Nhật sản xuất ra cho thị trường nội địa luôn được ứng dụng công nghệ tân tiến sớm nhất (chẳng hạn như Subaru Levorg được trang bị EyeSight X chỉ dành riêng cho thị trường Nhật Bản), mãi sau đó mới đến lượt các thị trường quốc tế. Tất cả những yếu tố kể trên kết hợp lại để tạo điều kiện cho vô số tuyệt phẩm JDM ra đời và vang danh đến tận ngày nay.
Phần tiếp theo, mời bạn xem một ít thông tin các mẫu xe JDM lừng danh của thập niên 90 nhé.
Những mẫu xe JDM lừng danh của thập niên 90
Mazda RX-7 FD
- Sản xuất từ 1991 đến 2002
- Động cơ 1.3L tăng áp kép
- Công suất động cơ từ 252 – 276 mã lực
- Dẫn động cầu sau

FD là tên mã của thế hệ RX-7 thứ ba, được giới đam mê xe JDM yêu thích bởi nó hội tụ được 2 tiêu chí vô cùng quan trọng khi xét đến xe thể thao: hiệu năng vận hành cực kỳ ấn tượng và kiểu dáng quyến rũ đến mê hoặc lòng người!
RX-7 sở hữu một thân hình thon gọn, nền tảng khung gầm ứng dụng chất liệu có khối lượng nhẹ và đặc biệt nhất là hộp số tuần tự (Sequential gearbox), qua đó trở thành mẫu xe thương mại sản xuất hàng loạt đầu tiên của Nhật Bản được trang bị hộp số dạng này. Lúc đó Mazda vẫn còn đang tập trung phát triển động cơ xoay (rotary) và đương nhiên RX-7 cũng được sử dụng, càng khiến nó thêm phần độc đáo.
Mời các bạn xem video dưới đây để hiểu thêm về các xe JDM trang bị động cơ xoay (rotary) nhé
Các kỹ sư Mazda khéo léo đặt khối động cơ xoay này ở vị trí ngay phía sau cầu trước của RX-7, khiến cho xe đạt tỷ lệ phân bổ khối lượng ở mức 50/50 gần như hoàn hảo. Cộng với việc trọng tâm xe khá thấp, RX-7 có thể tăng tốc từ 0 – 100 km/h trong vòng 5,9 giây trước khi chạm đến ngưỡng vận tốc tối đa 249 km/h. Nhờ cách thức vận hành của cặp tăng áp kép tuần tự mà mô men xoắn được sản sinh ra đều đặn ở toàn bộ dải vòng tua máy khiến ai cầm lái RX-7 cũng cảm thấy dễ làm quen và rất sướng.

Không chỉ có vậy, RX-7 còn được coi là một trong những chiếc xe JDM nổi bật nhất vì yếu tố kinh tế. Khối động cơ có dung tích nhỏ hơn ngưỡng 1.5L nên không bị đánh thuế quá cao, giúp xe trở nên dễ tiếp cận hơn các lựa chọn khác, trong khi hiệu năng nhiều lúc còn tốt hơn!
Honda NSX
- Sản xuất từ 1990 đến 2005
- Động cơ 3.0L
- Công suất động cơ từ 270 – 290 mã lực
- Dẫn động cầu sau

Có quá nhiều điều tuyệt vời để nói về Honda NSX – chiếc xe đầu tiên của Nhật Bản đạt đến đẳng cấp siêu xe, được ra đời nhằm cạnh tranh trực tiếp với Ferrari và thay đổi quan niệm rằng xe JDM chỉ có hàng phổ thông rẻ tiền. NSX cũng là cách để Honda quảng bá những công nghệ ưu việt, phần lớn trong số đó được đơn vị phụ trách xe đua F1 của họ sáng tạo nên.
Ở thời điểm đó, Honda đã làm được điều tưởng chừng là chuyện viễn tưởng: tạo ra chiếc xe 2 cửa/2 chỗ ngồi với động cơ đặt giữa và hiệu năng vận hành vượt trội hơn cả các “ông lớn” Italia như Ferrari và Lamborghini, trong khi giá lại rẻ hơn! Bí quyết nằm ở khối động cơ V6 mạnh mẽ với 24 van, dung tích 3.0L và ứng dụng công nghệ đóng mở van biến thiên điện tử cực kỳ tiên tiến mang tên VTEC (Variable Valve Timing and Lift Electronic Control).

Để tận dụng triệt để công nghệ VTEC, động cơ sẽ phải quay nhiều hơn mức thông thường: lên đến ngưỡng tua 8.000 vòng/phút, Các kỹ sư Honda đã phải dùng đến thanh nối làm từ titan – một chất liệu tuyệt vời có khối lượng nhẹ như nhôm nhưng cứng hơn thép – lần đầu tiên được sử dụng trên một chiếc xe thương mại. NSX có thể tăng tốc 0 – 100 km/h trong 5,7 giây, vận tốc tối đa 270 km/h.
Honda NSX còn là chiếc xe sản xuất thương mại đầu tiên có khung gầm hoàn toàn bằng nhôm và ứng dụng chất liệu nhôm ở các thành phần thuộc hệ thống treo, qua đó tiết kiệm được tổng cộng 220 kg so với những chất liệu truyền thống như thép. Một số đặc điểm khác như việc sở hữu hệ thống chống bó cứng phanh ABS và cơ cấu trợ lực lái bằng điện mang đến những giá trị đặc biệt cho NSX tại thời điểm đó.
Toyota Supra Mk. IV (A80)
- Sản xuất từ 1993 đến 2002
- Động cơ 3.0L
- Công suất động cơ từ 276 – 326 mã lực
- Dẫn động cầu sau

Thế hệ Toyota Supra thứ tư khác biệt gần như hoàn toàn so với người tiền nhiệm của nó, khi kiểu dáng vuông vức đã biến mất, thay vào đó là những đường cong đầy quyến rũ và sự hiện diện của cánh lướt gió thể thao kích thước lớn nằm phía sau đuôi. Để thêm phần hấp dẫn, Supra Mk. IV còn sở hữu khối động cơ tăng áp kép tuần tự 2JZ-GTE huyền thoại, mang đến cho xe khả năng tăng tốc từ 0 – 100 km/h chỉ trong 5,1 giây cùng vận tốc tối đa 251 km/h.
Bên cạnh sức mạnh động cơ, việc cắt giảm khối lượng cũng là một yếu tố quan trọng để Supra A80 đạt được hiệu năng ấn tượng. Các kỹ sư Toyota đã vận dụng đủ mọi thủ thuật có thể nghĩ ra vào thời điểm đó, từ ứng dụng chất liệu nhôm ở nhiều thành phần của khung gầm và thân vỏ cho đến trang bị vô-lăng làm từ hợp kim nhôm, ống xả chỉ là dạng đơn thay vì kép, sợi vải của thảm sàn là loại rỗng ruột… để tinh giảm khối lượng xe bớt đi tận 91 kg so với Supra thế hệ thứ ba.

Lẽ ra mẫu xe này còn có thể nhẹ hơn nữa, nếu như Toyota chọn phương án giữ nguyên tính năng như cũ và không trang bị cho nó những thứ hữu ích như túi khí đôi, phanh hiệu năng cao với đĩa kích thước lớn và hệ thống kiểm soát lực kéo Traction Control – “hàng hiếm” thời bấy giờ. Loại lốp tiêu chuẩn và mâm của Supra Mk. IV cũng lớn hơn thế hệ tiền nhiệm.
Ảnh hưởng của Supra Mk. IV A80 không chỉ gói gọn trong cộng đồng chơi xe JDM mà còn lan rộng khắp văn hóa đại chúng khi xuất hiện trong series phim nổi tiếng Fast and Furious, cũng như được đưa vào các tựa game lừng danh Need for Speed hay Gran Turismo. Ngày nay, nó thậm chí còn được yêu mến và đánh giá cao hơn cả Supra thế hệ thứ 5 vừa ra mắt cách đây chưa lâu vì vẫn là “xe Toyota thuần túy”, không phải “BMW Z4 đổi tên” như hậu bối của mình.


Toyota GT Supra 2.0 A90
Nissan Skyline GT-R
- Sản xuất từ 1989 đến 2002
- Động cơ 2.6L
- Công suất động cơ 276 mã lực
- Dẫn động bốn bánh AWD

Với tham vọng chinh phục bộ môn đua xe thể thao, vào năm 1989 Nissan đã “hồi sinh” cái tên Skyline GT-R vốn dĩ từng chấm dứt năm 1973 để thay thế cho mẫu Skyline GTS-R R31 đã cũ kỹ. Những gì diễn ra sau đó đã trở thành lịch sử, không ai là không biết đến những chiếc Skyline GT-R R32 hiệu năng cao đầu bảng của nhà Nissan khi mang đến cho hãng xe này tận 29 danh hiệu vô địch phân hạng Group A của giải Japanese Touring Car Championship trong giai đoạn 1989 – 1993.
Ngoài vinh quang, Skyline GT-R còn được sử dụng làm “bệ phóng” để Nissan phô diễn các công nghệ tiên tiến nhất của họ như hệ dẫn động bốn bánh AWD mang tên ATTESA E-TS hay cơ cấu đánh lái cả bốn bánh Super-HICAS. Hiệu năng vận hành của Skyline G-TR R32 ấn tượng đến mức tạp chí Wheels (Australia) từng đặt cho nó biệt danh “Godzilla” và ca ngợi hết lời, để rồi tên gọi này cũng gắn liền luôn với các thế hệ kế tiếp gồm R33 và R34.

So với dòng Skyline tiêu chuẩn, điểm đặc biệt của Skyline GT-R là nó chưa bao giờ được sản xuất ở bất kỳ nơi đâu ngoài biên giới Nhật Bản và chỉ được xuất khẩu theo diện chính hãng đến một vài thị trường gồm Hồng Kông, Australia, New Zealand và Vương Quốc Anh. Thế nhưng theo thời gian, niềm đam mê đã giúp những người yêu thích Skyline GT-R tìm cách đưa nó đi khắp nơi trên thế giới, tham gia vào hầu hết mọi giải đua và các cuộc chơi tốc độ. Skyline GT-R cũng trở thành “ngôi sao điện ảnh” và được đông đảo công chúng biết đến.
Thực tâm, Nissan GT-R và Subaru WRX STI – dòng xe mình sẽ giới thiệu ngay sau đây luôn là một ước mơ được sở hữu của cá nhân mình. Nếu muốn tìm hiểu thêm về Nissan GT-R, mình xin đính kèm video của anh Long CCM Fast dưới đây để bạn tìm hiểu về dòng xe tuyệt vời này nha.
Subaru Impreza WRX STI
- Sản xuất từ 1993 đến 2000
- Động cơ 2.0L tăng áp
- Công suất động cơ từ 247 – 276 mã lực
- Dẫn động bốn bánh AWD

Một huyền thoại super car khác của người Nhật. Nếu như Nissan Skyline GT-R được biết đến ở thể loại đua touring, thì Subaru Impreza WRX STi gây dựng tên tuổi trong các giải đua rally, đúng như tên gọi của nó (WRX viết tắt từ World Rally eXperimental). Bản cấu hình STI như đề cập ở đây là cao cấp nhất trong danh mục sản phẩm tại thời điểm đó, xếp trên Impreza và Impreza WRX về hiệu năng vận hành, được đơn vị phụ trách xe đua Subaru Tecnical International tạo ra dành riêng cho thị trường Nhật Bản.
Có thể bạn quan tâm: Impreza 22B STI – Mẫu xe đua huyền thoại thập niên 90
So với Impreza WRX, những chiếc Impreza WRX STI ở một đẳng cấp cao hơn hẳn với động cơ được tinh chỉnh thủ công, hộp số được tối ưu cho phù hợp với năng lực vận hành cực đại và hệ thống treo gia cố lại để thêm phần bền bỉ. Bên cạnh đó là hệ dẫn động bốn bánh AWD và sau này có thêm hệ thống vi sai trung tâm Driver Controlled Center Differential trên phiên bản Impreza WRX Type RA STI.

Thành công của Impreza WRX STI trong các giải đua World Rally Championship (WRC) cộng với việc được giới đua xe đường phố yêu thích đã khiến cho danh tiếng dòng xe này vang xa khắp năm châu bốn bể.
Ở Việt Nam, Impreza WRX STI rất được anh em chơi xe JDM đầu tư nâng cấp và sử dụng rất nhiều so với Nissan GT-R vì một phần GT-R rất hiếm. Nổi tiếng nhất theo mình có lẽ là chiếc “Susu 500” của anh Phạm Tuấn. Đó là chiếc xe có trong video mình chia sẻ bên dưới.
Mitsubishi Lancer Evolution VI
- Sản xuất từ 1999 đến 2001
- Động cơ 2.0L tăng áp
- Công suất động cơ 276 mã lực
- Dẫn động bốn bánh AWD

Đã nhắc đến Subaru Impreza WRX STI thì cũng không thể không đề cập đến đối thủ truyền kiếp của nó đến từ Mitsubishi. Tương tự như nhiều dòng xe JDM nổi tiếng khác cùng thời kỳ, Lancer Evolution VI được phát triển dựa trên nền tảng dòng xe du lịch dân dụng Lancer và được tối ưu hiệu năng lên mức cao nhất có thể trong phạm vi giới hạn công nghệ lúc đó.
So với thế hệ Evo V, Lancer Evo VI được cải thiện cơ chế tản nhiệt nhằm tăng độ bền bỉ cho động cơ. Ngoài ra, phần bodykit được tinh chỉnh lại cho đẹp mắt hơn, trong khi cụm đèn sương mù được giảm kích cỡ và dịch chuyển ra các góc, tạo diều kiện cho đội ngũ thiết kế mở rộng khe hút gió, càng khiến động cơ thêm mát mẻ khi vận hành.

Thế hệ Lancer Evo này còn nổi tiếng khi có phiên bản đặc biệt Tommi Mäkinen – đặt theo tên của tay đua người Phần Lan từng mang về 4 chiến thắng ở giải WRC cho đội Mitsubishi. Nó sở hữu cản trước đặc trưng, mâm Enkei 17 inch, ghế thể thao Recaro, vô-lăng Momo bọc da, độ cao thân xe giảm xuống sát mặt đất hơn (mang lại hiệu quả khí động học tốt hơn) và hệ thống trợ lực lái được tinh chỉnh để có tỷ lệ đánh lái mau lẹ hơn – khiến cho giới sưu tầm xe JDM rất ưa chuộng.
Sự tranh đấu của 2 đối thủ truyền kiếp này sẽ được anh Tâm Phan – một trong những chủ sở hữu xe JDM ở Việt Nam chia sẻ trong video dưới đây:
Honda Integra Type R DC2
- Sản xuất từ 1995 đến 2001
- Động cơ 1.8L
- Công suất động cơ 200 mã lực
- Dẫn động cầu trước

Được mệnh danh là một trong số những chiếc xe cầu trước tuyệt vời nhất mọi thời đại, phiên bản xe này đạt đến cực đỉnh giới hạn của dòng Integra về tất cả các khía cạnh từ động cơ, hộp số, hệ thống treo, phanh, nội thất… và đặc biệt là sự hiện diện của vi sai hạn chế trượt Helical. Công nghệ VTEC được ứng dụng, cho phép động cơ đạt redline ở 8.500 vòng/phút, tức là còn hơn cả siêu xe NSX.
So với Integra tiêu chuẩn, bản Type R chú trọng vào tinh giản khối lượng trong khi vẫn đảm bảo sự vững chắc của toàn bộ thân xe khi vận hành ở tốc độ cao. Tất cả những gì “không cần thiết cho chạy đường đua” như cửa sổ trời, gương trang điểm trong các tấm che nắng, tính năng ga tự động cruise control hay thậm chí ngay cả gạt mưa kính sau… đều bị loại bỏ. Hệ thống điều hòa cũng bị cắt nhưng vẫn được cung cấp dưới dạng tùy chọn lắp thêm.

Với Integra Type R DC2, Honda còn thể hiện “độ chịu chơi” khi tuyên bố rằng họ không thu được 1 xu lợi nhuận nào từ tất cả những phiên bản xe hiệu năng cao này. Chi phí sản xuất chúng quá cao, chủ yếu đến từ công lắp ráp và tinh chỉnh bằng tay của đội ngũ kỹ sư, qua đó cũng nâng tầm Integra Type R DC2 lên huyền thoại trong giới chơi xe JDM.
Nissan Silvia
- Sản xuất từ 1989 đến 2002
- Động cơ 2.0L
- Công suất động cơ từ 133 – 247 mã lực
- Dẫn động cầu sau

Dòng Silvia có lịch sử rất lâu đời, nhưng phải đến thế hệ mang tên mã S13 thì nó mới thực sự gây tiếng vang. Ngay trong năm ra mắt đầu tiên, Nissan Silvia S13 đã được bầu chọn là Xe của năm (Car of The Year) tại quê nhà Nhật Bản. Chiếc coupe 2 cửa này rất được ưa chuộng trong giới mê chơi drift vì một số phiên bản có trang bị sẵn vi sai hạn chế trượt, ngoài ra Silvia còn đặc biệt phổ biến trong bộ môn đua đường đèo núi Touge.
Trong một thời kỳ mà Nissan giới thiệu nhiều mẫu xe đến mức các mẫu đời mới được bán song song với xe đời tiền nhiệm, khách hàng chỉ cần quan tâm đến việc mình có dư dả hay không để chọn giữa Silvia S13 với động cơ CA18 1.8L hoặc các bản S14 và S15 tân tiến hơn với động cơ SR20 2.0L. Cả 2 loại động cơ này đều được chia thành phiên bản hút khí tự nhiên hoặc kết hợp với turbo tăng áp, bên cạnh đó là 2 lựa chọn hộp số gồm số sàn 5 cấp và số tự động 4 cấp (sau này S15 có thêm số sàn 6 cấp nữa).

Tuy được định vị là dòng xe thể thao giá rẻ, chiếc xe JDM này vẫn được Nissan ưu ái khi là một trong những sản phẩm đầu tiên ứng dụng hệ thống treo sau dạng đa liên kết. Hệ thống đánh lái cả bốn bánh Super-HICAS cũng xuất hiện trên Silvia dưới tên ban đầu là HICAS-II, đem đến sự thích thú cho cộng đồng JDM khi không cần bỏ ra nhiều chi phí mà vẫn “tậu” được chiếc xe đầy ắp “đồ chơi”.
Nissan 300ZX Z32
- Sản xuất từ 1989 đến 2000
- Động cơ 3.0L
- Công suất động cơ 300 mã lực
- Dẫn động cầu sau

Mẫu xe thể thao thuộc dòng Fairlady Z này nổi bật nhờ phần ngoại hình khác biệt triệt để so với thế hệ Z31 tiền nhiệm khi thay thế hầu hết những đường thẳng góc cạnh tẻ nhạt bằng thân hình cong tròn mỹ miều. Nissan từng quảng cáo rằng hãng đã phải vận dụng đến năng lực tính toán của siêu máy vi tính Cray-2 (rất khủng vào thời đó) và một phần mềm thiết kế CAD chuyên nghiệp để tạo ra 300ZX Z32 “hút hồn” bao người, cũng như đạt hiệu quả khí động học tốt hơn.
Động cơ V6 3.0L lấy từ thế hệ cũ qua được các kỹ sư Nissan nâng cấp thành DOHC và bổ sung công nghệ van biến thiên N-VCT, qua đó cải thiện hiệu năng vận hành đáng kể. 300ZX Z32 có khả năng tăng tốc 0 – 100 km/h chỉ trong vòng 5 giây trước khi đạt vận tốc tối đa 250 km/h, khiến nó trở thành một trong những mẫu xe thể thao Nhật Bản nhanh nhất ở thời điểm ra mắt.

Điểm đặc trưng của xe Nissan thời kỳ thập niên 1990 là được cung cấp ra thị trường với nhiều phiên bản cấu hình và tích cực ứng dụng công nghệ tiên tiến cũng được thể hiện đầy đủ trên 300ZX Z32. Mẫu xe này có Super-HICAS trên những bản cấu hình cao cấp với động cơ tăng áp kép, ngoài ra nhà sản xuất cũng sẵn lòng bán ra bản động cơ hút khí tự nhiên cho những ai có nhu cầu. Khách hàng còn có thể lựa chọn dạng thân mui cứng hoặc mui mở tùy thích.
Honda Civic Type R EK9
- Sản xuất từ 1997 đến 2001
- Động cơ 1.6L
- Công suất động cơ 182 mã lực
- Dẫn động cầu trước

Đây là phiên bản cấu hình cao cấp nhất của dòng Civic thế hệ thứ 6 (EK9) ở thời bấy giờ và cũng là lần đầu tiên dòng Civic có phiên bản Type R. Được phát triển dựa trên thân hình Civic hatchback tiêu chuẩn, bản Type R được tinh giản khối lượng, gia tăng độ cứng chắc thân xe, nâng cấp hệ thống phanh và động cơ. Mẫu xe này cũng chia sẻ nhiều đặc điểm với Integra Type R DC2, bao gồm cả vi sai hạn chế trượt Helical, hộp số sàn 5 cấp có tỷ số truyền đóng (close-ratio).
Để phân biệt với Civic tiêu chuẩn, Civic Type R mang nhãn màu đỏ nổi bật, nội thất cũng có nhiều chi tiết tông đỏ, trong khi vô-lăng được bọc da rất kiểu cách. Về sau, Honda còn cho ra mắt thêm bản đặc biệt Motor Sports theo phong cách xe đua thể thao tối ưu hiệu năng khi lược bỏ hết những thứ không cần thiết như hệ thống điều hòa, radio FM, cơ cấu chỉnh điện cửa sổ và mâm thì chuyển thành loại bằng thép cơ bản.

Động cơ hút khí tự nhiên B16B của chiếc xe JDM này đạt tỷ lệ sản sinh công suất/dung tích xy lanh và thuộc hàng cao nhất mọi thời đại khi có thông số 182 mã lực tại 8.200 vòng/phút và đạt mô men xoắn cực đại 160 Nm tại 7.500 vòng/phút. Xe có thể tăng tốc 0 – 100 km/h trong vòng 6,7 giây, thành tích đáng nể với một mẫu xe dùng động cơ dưới 2 “chấm”.
Nissan Pulsar GTI-R N14
- Sản xuất từ 1990 đến 1994
- Động cơ 2.0L
- Công suất động cơ từ 186 – 227 mã lực
- Dẫn động bốn bánh AWD

Mẫu Pulsar thế hệ thứ tư được hưởng lợi từ những cải tiến dành cho Skyline GT-R, có thể kể đến hệ dẫn động AWD ATTESA và động cơ tăng áp SR20 mạnh mẽ. Chính vì thế, một bộ phận các tay chơi xe JDM chú trọng đến trải nghiệm lái phấn khích vẫn tìm đến mẫu xe này và chấp nhận tặc lưỡi bỏ qua phần ngoại hình vốn dĩ không được bắt mắt cho lắm.
Nissan không quảng bá nhiều về Pulsar GTI-R khi họ chỉ đơn thuần tạo ra mẫu xe này nhằm tham dự phân hạng Group A của giải đua rally WRC. Tuy nhiên do màn thể hiện của Pulsar GTI-R quá ấn tượng, tiếng lành đồn xa dẫn đến việc nhiều người tìm mua lại để sử dụng trên đường phố hàng ngày. Nhà sản xuất cũng chia xe ra nhiều phiên bản, từ GTI-RA tiêu chuẩn cho đến GTI-RB tinh giản tối đa phục vụ mục đích “đua bơi”.

Lịch sử ghi nhận mẫu xe này đạt hiệu năng tốt nhất với thành tích tăng tốc 0 – 100 km/h trong 5,4 giâu và đạt vận tốc tối đa 232 km/h. Có thể nói, Pulsar GTI-R N14 chính là hiện thân không thể nào chính xác hơn của “sleeper car” – những mẫu xe có ngoại hình bình thường nhưng sở hữu nội lực vô cùng đáng nể.
5 điều cần biết về xe JDM
Không phải mọi xe JDM đều là xe thể thao Nhật Bản
Bất cứ khi nào chúng ta nói về các mẫu xe JDM, chúng ta chủ yếu đề cập đến Nissan GTR , Toyota Supra, hoặc các mẫu xe thể thao khác, đây là một số ví dụ điển hình về xe hiệu suất cao của Nhật Bản.


Nhưng bạn cần hiểu rằng không phải tất cả các mẫu Super car mới là xe JDM . Xe Suzuki Jimny, xe Subaru Levorg EyeSight X đều thuộc danh mục xe JDM.
Không phải tất cả các xe JDM đều có hiệu suất vượt trội
Nhật Bản đã giới thiệu một số công nghệ mới thông qua những chiếc xe này, chẳng hạn như hệ thống Variable Cylinder Management (tạm dịch ngắt xylanh chủ động). Nhưng đó không phải là trường hợp cho mọi dòng xe JDM. Các nhà sản xuất ô tô Nhật Bản cũng sản xuất nhiều loại xe nội địa, không đạt tiêu chuẩn quá vượt trội về chất lượng. Mình chỉ muốn nói rằng, không phải xe JDM nào cũng phải mang trên mình hiệu suất vượt trội.
Lấy Suzuki X-90 hay Honda City đời 1996 làm ví dụ. Các công ty này đã sử dụng các phương pháp cắt giảm chi phí để xây dựng những dòng xe giá cả phải chăng này cho những người mua xe trung bình ở Nhật Bản.
Xe JDM giá không cao
Tại Nhật Bản, bạn sẽ tìm thấy những chiếc xe này với cả mức giá tầm cao và tầm trung. Nhưng giá cao hơn ở một số quốc gia do các loại thuế và thuế quan buộc phải nhập khẩu những chiếc xe này từ Nhật Bản.
Ví dụ, các nước thuộc Liên minh Châu Âu (EU) không áp đặt các loại thuế và phí này đối với các nhà nhập khẩu. Vì vậy, xe JDM ở EU rẻ hơn rất nhiều so với nhiều nước khác trên thế giới.
Một chiếc xe thương hiệu Nhật Bản chưa chắc đã là một chiếc xe JDM
Nếu bạn ở Việt Nam và mua một chiếc Mazda 3 với suy nghĩ đó là xe JDM, rất tiếc phải thông báo với bạn rằng bạn đã nhầm.

Như mình đã chia sẻ ở đầu bài viết, các nhà sản xuất chế tạo những chiếc xe này chỉ để bán tại thị trường xe Nhật Bản. Các mẫu xe JDM sẽ được sản xuất và phục vụ cho người dân Nhật Bản một thời gian dài trước khi xuất ra nước ngoài để phục vụ cho khách hàng quốc tế.
Phụ tùng ô tô JDM đắt và khó tìm
Vì khách hàng mục tiêu của những chiếc xe này là những người sống ở Nhật Bản, các phụ tùng, linh kiện của chúng cũng có nguồn gốc trong nước. Trong trường hợp bạn định nhập khẩu hoặc mua một chiếc ô tô JDM bên ngoài Nhật Bản, hãy nhớ rằng bạn sẽ không tìm thấy phụ tùng thay thế của nó ở các cửa hàng địa phương. Rất có thể ngay cả các công ty hậu mãi cũng gặp khó khăn trong việc tìm nguồn cung cấp các bộ phận này.
Nhiều người cho rằng những phụ tùng xe này rẻ là do giá xe rẻ, điều này không đúng. Bạn có thể gặp khó khăn khi tìm phụ tùng cũ cho xe JDM của mình khi cần sửa chữa. Tại Việt Nam,xe JDM chưa được phổ biến rộng rãi, bởi lượng người chơi xe còn khá ít, bên cạnh đó luật cấm nhập xe cũ có tuổi đời quá 5 năm. Hầu hết các chiếc xe JDM tại Việt Nam, đã có từ trước đây hoặc mới được nhập khẩu qua đại lý tư nhân.


Nhưng bạn yên tâm, nếu bạn ở Việt Nam và muốn quan tâm cũng như tìm hiểu về dòng xe JDM thì trong tương lai, rất có thể Subaru Việt Nam sẽ mang về những mẫu xe JDM như Subaru WRX STI để đáp ứng nhu cầu cũng như sở thích của bạn. Và ở Việt Nam hiện tại, bạn cũng chỉ có thể trông chờ vào Subaru nếu muốn mua xe JDM chính hãng. Thậm chí, linh kiện để độ xe JDM cũng sẽ phát triển theo thời gian để phục vụ khách hàng.
Và cuối cùng, cảm ơn bạn đẽ theo dõi bài viết dài nhất từ trước tới giờ trên Blog của mình. Xin chào và hẹn gặp lại!
(Nguồn: tổng hợp)